Quyền hành pháp trong tình trạng khẩn cấp theo hiến pháp một số nước và Việt Nam

Facebook
LinkedIn
Tóm tắt: Trong điều kiện khẩn cấp, các cơ quan thực hiện quyền hành pháp được trao những quyền hạn đặc biệt, tuy vậy tổ chức và thực thi quyền hành pháp cũng phải theo một trình tự nhất định của pháp quyền. Bài viết phân tích cơ sở lý thuyết về quyền hành pháp trong tình trạng khẩn cấp, và phân tích các quy định Hiến pháp của một số quốc gia. Trên cơ sở đó, bài viết chỉ rõ các hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về tình trạng khẩn cấp của Việt Nam, từ đó đề xuất một số gợi mở đổi mới tổ chức và thực hiện quyền hành pháp nhằm phòng, chống sự làm quyền và bảo vệ quyền của người dân.

1. Đặt vấn đề

Mọi người đều thừa nhận rằng chính quyền phải có những quyền hạn đặc biệt trong tình trạng nguy cơ cấp bách. Tình trạng khẩn cấp hay còn được gọi là tình trạng đặc biệt là khái niệm đã có từ lâu và đã được sử dụng ở nhiều quốc gia dưới mọi chế độ chính trị. So với các quyền lập pháp và quyền tư pháp, thì quyền hành pháp có nhiều ưu thế hơn trong việc giải quyết các vấn đề hơn trong tình trạng khẩn cấp. Có nhiều lý do cho việc giải thích, nhưng có lẽ phải thấy, rõ ràng rằng, các chủ thể thực hiện quyền hành pháp là chủ thể đầu tiên nhận thấy trách nhiệm phải giải quyết tình trạng này. Trong quá khứ những khái niệm này biểu hiện một tình trạng quan trọng nhất định, tình trạng chiến tranh và đặc quyền của hành pháp được luật pháp của nhiều quốc gia quy định. Trong thời hiện đại nhất là sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, tình trạng khẩn cấp được áp dụng rất nhiều ở các quốc gia trên thế giới trong tình thế hòa bình và đã được đưa lên hàng khái niệm hiến tính. Rất ít có Hiến pháp nào sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai mà lại không có điều khoản quy định quyền ưu tiên của Hành pháp trong trường hợp khẩn cấp. Trong tình trạng này hành pháp thay hẳn lập pháp bằng những sắc lệnh tuyên bố tình trạng báo động, giới nghiêm hay khẩn trương trên 1 phần hay toàn lãnh thổ quốc gia.

Theo thuyết pháp lý thì hành pháp có quyền ưu tiên. Chủ thể cầm quyền không phải thảo luận mà phải hành động trong tình trạng nguy cơ và cấp bách vì sự sinh tồn của quốc gia: Có thể đình chỉ việc áp dụng mọi luật lệ cản trở hành động khẩn cấp, cả luật bảo vệ quyền lợi của cá nhân, với mục đích bảo vệ sự tồn tại chính đáng của quốc gia. Trong những trường hợp đặc biệt hành pháp có bổn phận bảo vệ sự tồn tại của quốc gia bằng bất cứ biện pháp nào cho dù bất hợp pháp. Tất cả những gì giúp cho sự sinh tồn quốc gia và sự vãn hồi trật tự an ninh đều có thể được làm trong tình trạng khẩn cấp không thể là những biểu hiện của sự bất hợp pháp khi và chỉ khi những hành vi đó phải được quy định, hay phải được suy ra từ những quy định trong Hiến pháp, đạo luật có hiệu lực pháp lý tối cao của quốc gia.

2. Hiến pháp của các nước trên thế giới về tình trạng khẩn cấp

Hiến pháp của Hợp chúng quốc Hoa kỳ không đề cập đến vấn đề khẩn cấp. Nhưng tất cả các tổng thống trong những lúc quốc gia trải qua cơn khủng hoảng đều khẳng định rằng họ có những quyền dùng biện pháp đặc biệt. Tổng thống A. Lincoln vào đầu cuộc Nam Bắc phân tranh đã ký sắc lệnh đình chỉ tất cả các quyền tự do công cộng và trước Nghị viện ông đã thuyết minh hành động của mình viễn lẽ khẩn cấp và lời tuyên bố giữ gìn Hiến pháp và bảo vệ quốc gia.[1]

Ở Mỹ quyền khẩn cấp (emergency powers) được hiểu ở 2 nghĩa: i. những quyền lực đặc biệt trao cho chính phủ hoặc cơ quan hành pháp cho phép đình chỉ hiệu lực của các thủ tục lập pháp thông thường hoặc các trình tự tư pháp. Trong các nền dân chủ phương Tây, quyền lực khẩn cấp như vậy thường được kiểm soát chặt chẽ bởi cơ quan lập pháp và chỉ cho phép sử dụng trong một thời gian hạn chế. Tại các nước ít dân chủ hơn, quyền lực khẩn cấp thường được hiểu các giai đoạn thắt chặt quyền lực và tất cả quyền tự do của người dân đều bị đình chỉ. ii. Quyền lực được nới rộng cho Tổng thống Mỹ theo Hiến pháp Điều 2 khoản 2 & 3 vì tính khẩn cấp của tình hình, nhằm đối phó với vấn đề đang diễn ra.

Việc thực hiện quyền lực khẩn cấp có thể sau đó được hoặc không được Tòa án tối cao xem xét. Trong phán quyết vụ Kormatsu kiện Hoa kỳ (1944), Tòa án tối cao đã khẳng định trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai của Tổng thống Franklin D. Roosevenlt về việc cưỡng chế tập trung người Mỹ gốc Nhật. Tuy nhiên, Đạo luật về các quyền tự do công dân 1988 đã xin lỗi các công dân này vì sự đối xử tệ bạc của chính phủ và quy định rằng, nếu còn sống các công dân này được đền bù 20.000 đô la. Nhưng trong phán quyết Youngstowwn sheet and tube v Sawyer, Tòa án tối cao đã bác bỏ yêu sách của Tổng thống Harry S. Truman đòi được trao quyền lực khẩn cấp để trung dụng các nhà máy thép tư nhân nhằm đảm bảo sản lượng của thời chiến. Tổng thống có thể làm hầu hết những gì ông muốn trong khuôn khổ quyền lực khẩn cấp cho tới khi bị một trong 2 quyền lực còn lại ngăn cản. Việc giám sát chéo như vậy giúp hạn chế được quyền lực khẩn cấp của tổng thống cho tới khi nào quyền lực đó được coi là cần thiết.[2]

Emergency Powers – Quyền hạn khẩn cấp là các quyền hạn do chính quyền quốc gia hành sử trong một giai đoạn khẩn trương, hoặc các quyền hạn được Quốc hội trao cho Tổng thống trong một khoảng thời gian hạn chế. Việc tổng thống nắm những quyền hạn cần thiết trong các vấn đề đối ngoại đã cung cấp cho Tổng thống nguồn lực trong giai đoạn khẩn trương.

Lịch sử cũng như kinh nghiệm hiện tại chứng tỏ quyền tuyên bố chiến tranh của Quốc hội không ngăn cản được quyền tổng thống đưa đất nước vào cuộc chiến mà lẽ ra không nên tham dự. Quyền điều quân và can dự vào các cuộc xung đột tạo cho tổng thống lợi thế của “người đi trước”. Bằng cách đưa quan tham chiến, tổng thống đẩy Quốc hội vào tình thế không còn cách nào khác phải ủng hộ mình. Quyền hạn này đã mang lại cho tổng thống sự cho phép ở phạm vi rộng. Năm 1861, trong vòng 6 tháng sau khi quân đội liên bang miền Nam khai chiến, Tổng thống A. Lincoln đã hoãn áp dụng quyền Habeas Corpus Act (đình quyền giam giữ) để bắt giam các công dân bị nghi làm gián điệp hoặc nghi là người phản đối chiến tranh Nam Bắc. Ông không hề tham khảo ý kiến Quốc hội trước khi áp dụng. Đồng thời Tổng thống ra lệnh dùng hải quân phong tỏa các cảng biển phía Nam, tăng thời gian phục vụ trong quân đội lên 3 năm, mở rộng quy mô lục và hải quân, cho phép mua nguyên vật liệu, tất cả đều không có sự cho phép và chuẩn chi của Quốc hội. Sau đó Tổng thống biện minh cho hành động của mình rằng, ông dựa vào các đặc quyền của hành pháp với tư cách là Tổng Tư lệnh lực lượng vũ trang: “Tổng thống có nghĩa vụ thực thi quyền lực chiến tranh đặt ra cho ông để bảo vệ chính quyền. Ông nói thêm: “Cho dù có chặt chẽ về mặt pháp lý hay không, các biện pháp này đã được mạo hiểm thực hiện… với những niềm tin rằng khi dó cũng như bây giờ, Quốc hội sẽ sẵn sàng phê chuẩn chúng.”[3] Cả Chiến tranh Triều tiên (1950 – 1953) và chiến tranh ở Việt Nam diễn ra một thập kỷ sau đó đều không có tuyên bố chiến tranh nào. Quan điểm cho rằng tổng thống có toàn quyền sử dụng quân đội, ít nhất là trong thời gian ngắn, đã không vấp phải sự phản đối nào. Còn quyền tuyên bố chiến tranh của Quốc hội, trên nhiều khía chỉ là sự kiểm soát một cách hình thức.

Năm 1973 Quốc hội tìm cách tạo ra một quyền hạn mới với việc thông qua đạo luật về quyền chiến tranh (War powers Act) bất chấp sự phủ quyết của Tổng thống Nixon. Đạo luật yêu cầu Tổng thống phải thông báo cho Quốc hội trong vòng 48 tiếng kể từ khi đem quân ra nước ngoài để tham gia hành động quân sự. Hơn nữa hành động này phải chấm dứt sau 60 ngày trừ phi khi Quốc hội chấp nhận gia hạn. Nhưng cả tính hợp hiến của đạo luật lẫn hiệu lực thực thi của nó trong việc hạn chế quyền chỉ huy quân đội của Tổng thống đều chưa từng được kiểm nghiệm.

Ở nước Anh vào cuối thế kỷ 19 giữa lúc phiến loạn, chính phủ – hành pháp đã phải ký một loạt những sắc lệnh đặc biệt: Peace Preservation Acts, mà đến năm 1920 Quốc hội Anh đã biểu quyết thành đạo luật, mà nay vẫn còn có hiệu lực về quyền hành khẩn cấp (Emergency Power Acts) một đạo luật có tính cách thường trực cho phép chính phủ tuyên bố tình trạng khẩn cấp trong trường hợp đình công, hay bạo loạn làm tê liệt thông thường và an ninh và dùng tất cả các biện pháp cần thiết để vãn hồi trật tự công cộng.[4]

Hiến pháp 1958 của Pháp quốc Điều 16 quy định:

“Khi nào những định chế của chính thể Cộng hòa, nền độc lập của quốc gia, sự vẹn toàn của lãnh thổ hay sự thi hành các hiệp ước Quốc tế bị đe dọa một cách trầm trọng, trực tiếp và sự điều hành của các cơ quan công quyền do Hiến pháp quy định bị đình trệ, thì Tổng thống Cộng hòa được ban hành những biện pháp thích ứng sau khi hỏi ý kiến chính thức của Thủ tướng, các Chủ tịch hai Viện và Hội đồng Bảo hiến.”[5]

Như vậy cho dù có quy định hay không có quy định trong Hiến pháp trong cả những nhà nước pháp quyền áp dụng một cách hoàn toàn, cơ quan hành pháp nhiều lúc phải vượt hẳn thẩm quyền của mình, mà cơ quan lập pháp phải cho phép. Đó là những lúc đất nước ở tình trạng khẩn cấp.

Việc tuyên bố tình trạng khẩn cấp hay giới nghiêm là sự hạn chế quyền con người của công dân, về nguyên tắc thuộc thẩm quyền của lập pháp. Tuy nhiên, tình trạng khẩn cấp là tình trạng đặc biệt, xảy ra rất đột ngột, vì rằng nếu biết trước được những biến cố có thể làm phát sinh những tình trạng kể trên, thì người ta có thể ngăn ngừa để chúng khỏi xảy ra. Một cuộc biến loạn, hay một biến tự nhiên như lũ lụt, bão gió thường xảy ra bất ngờ, nếu phải chờ có đạo luật của lập pháp ban bố tình trạng khẩn cấp, giới nghiêm thì chắc chắn an ninh, sinh mạng của người dân không thể được bảo vệ một cách kịp thời. Vì tính cách đột ngột của biến cố sự kiện thiên nhiên, hay xã hội, các nhà lập hiến đã cho phép hành pháp hành động thực hiện những hành vi lập pháp bằng cách ra những sắc luật tuyên bố tình trạng báo động, giới nghiêm hay khẩn trương trên một phần hay toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Tình trạng khẩn cấp và tình trạng giới nghiêm: Cả hai tình trạng này là giảm bớt và nhiều khi còn có thể đình chỉ hẳn sự áp dụng quyền tự do công cộng, nhưng không phải là một chế độ độc tài hợp pháp, không kiểm soát, không giới hạn. Đây chỉ là 2 định chế ngoại lệ của nền pháp quyền. So với tình trạng khẩn trương thì tình trạng giới nghiêm thì chặt chẽ hơn. Nếu ở tình trạng khẩn trương, chính quyền vẫn điều hành, nhưng ở tình trạng giới nghiêm thì chính quyền dân sự được thay bằng quân sự. Tình trạng báo động ít trầm trọng hơn và ít nguy hiểm hơn tình trạng khẩn cấp hay khẩn trương. Tình trạng giới nghiêm là tình trạng gay gắt nhất, thường được ban hành để ứng phó với cuộc biến loạn trong nước hoặc cuộc xâm lăng từ bên ngoài vào. Tình trạng khẩn cấp là giải pháp trung gian giữa tình trạng bình thường và tình trạng giới nghiêm, giải pháp ôn hòa hơn bằng cách tăng cường, quyền hạn của hành pháp – hành chính để đối phó với nguy cơ cấp bách như thiên tai, bão lụt động đất…, còn giới nghiêm thì đối với địch họa. Tùy tính trầm trọng và nguy hiểm nhiều hay ít của tình thế, các nhà hành pháp quyết định việc ban hành tình trạng đặc biệt phù hợp, mà theo đó các quyền con người của công dân bị hạn chế nhiều hay ít.

Tình trạng khẩn cấp là tình trạng cho phép chính quyền dùng những biện pháp đặc biệt để đối phó với tình trạng đặc biệt, nhưng không phải với bất cứ biện pháp nào cũng được áp dụng, mà chỉ những biện pháp cần thiết cho một tình thế nhất định mới là hợp pháp. Việc xác định hiệu lực pháp lý của tình trạng khẩn cấp phải có tính thu hẹp. Để ứng phó với tình thế đặc biệt, theo quy định của cơ quan hành pháp, một hay nhiều quyền tự do công dân, hay một hay nhiều đạo luật có thể bị đình chỉ hoặc bị hạn chế thi hành. Công dân vẫn có thể tiếp tục sử dụng quyền của mình sau một thời gian ấn định áp dụng tình trạng khẩn cấp. Có thể tuyên bố tình trạng khẩn cấp trên toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và cũng có thể áp dụng trên một vùng lãnh thổ hoặc vài vùng lãnh thổ mà an ninh trật tự bị xâm phạm khá nghiêm trọng. Trong những tình trạng này tự do của con người bị thu hẹp. Những quyền thường bị hạn chế là quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do xuất nhập cảnh, tự do đình công … Vì vậy trong quyết định tuyên bố tình trạng khẩn cấp phải nêu rõ.

Tuyên bố tình trạng khẩn cấp tức là đình chỉ việc thực hiện pháp luật nhất là những quyền liên quan quyền con người và lợi ích của người dân. Sự tuyên bố cho phép nhân viên hành chính và nhất là quyền của người đứng đầu hành pháp được nới rộng, có quyền cấm cư trú trong tỉnh bất cứ ai có thể xâm phạm đến hoạt động của chính quyền, cấm giao thông trong những giờ và vùng nhất định. Thêm vào đó hành pháp có quyền trưng tập những gì cần thiết cho an ninh quốc gia và cần thiết cho sự vãn hội trật tự an ninh của vùng một cách nhanh chóng nhất. Trong những vùng này hành pháp có quyền quyết định nơi cư trú của công dân, cấm tự do hội họp, đóng cửa những nơi công cộng, đình chỉ bầu cử, kiểm tra người thường trú và tạm trú ngày và đêm, quyền kiểm soát tất cả hoặc một số báo chí, các phương tiện tự do ngôn luận khác.

Quyền được phép thu hẹp các quyền công dân của các cơ quan hành pháp không là tuyết đối, mà phải tuân theo nguyên tắc tương ứng với tình trạng được tuyên bố. Hơn nữa cần phải lưu ý khi quyết định tình trạng khẩn cấp, không được xâm phạm đối với một số quyền tuyệt đối của người dân. Đó là các quyền được sống của người dân, quyền không bị tra tấn, quyền bị bắt làm nô lệ. Chủ thể ra quyết định tình trạng khẩn cấp không thể lập luận rằng quyền đó của người dân không được pháp luật quy định một cách rõ ràng là quyền bất khả xâm phạm, mà có thể áp dụng những hạn chế đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp. Chỉ có một số ít quyền tuyệt đối (absolute right), tức không bị giới hạn trong bất kỳ trường hợp nào. Quyền được tôn trọng về nhân phẩm (trong đó bao gồm quyền không bị làm nô lệ, quyền không bị tra tấn và đối xử một cách tàn ác) được phần đông thừa nhận mang tính tuyệt đối, không thể bị hạn chế. Trong khi đó, một số quyền còn gây tranh cãi. Đó là quyền sống và quyền xét xử công bằng. Ngoài những quyền tuyệt đối, các quyền còn lại đều có thể bị giới hạn ở những mức độ khác nhau. Sự giới hạn quyền là hiện tượng bình thường và phổ biến ở mọi quốc gia.

Việc thực hiện các quy định này rất dễ dẫn hành pháp đến chỗ lạm quyền. Để tránh tình trạng này Hiến pháp quy định lập pháp phải được triệu tập chậm nhất là 12 ngày sau khi quyết định tình trạng khẩn cấp được ban hành, để phê chuẩn, sửa đổi hoặc bãi bỏ. Mọi sự hạn chế quyền con người của công dân về nguyên tắc phải do một đạo luật quy định, trong đó luật ấn định rõ phạm vi áp dụng trong thời gian và không gian. Về nguyên tắc luật đó phải do cơ quan lập pháp làm ra và ban hành. Nhưng vì ở trường hợp đặc biệt Hiến pháp đã dành cho cơ quan hành pháp có quyền ban hành các sắc lệnh để tuyên bố tình trạng giới nghiêm hay khẩn cấp.

Sự ban bố này cũng như việc hạn chế các quyền của công dân phải được Quốc hội xem xét lại để phê chuẩn hoặc sửa đổi hoặc bãi bỏ. Vì vậy Hiến pháp dân chủ thường phải quy định thời hạn trong vòng 12 kể từ ngày được quyết định là tình trạng đặc biệt phải được triệu tập họp để phê chuẩn, đình chỉ hay bãi bỏ tình trạng đặc biệt. Điều 64 của Hiến pháp năm 1967 của nền Cộng hòa Việt Nam thứ hai quy định rất rõ:

“i. Trong các trường hợp đặc biệt, Tổng thống có thể ký sắc luật tuyên bố tình trạng báo động, giới nghiêm hay khẩn trương trên một phần hay toàn thể lãnh thổ.

ii. Quốc hội phải được triệu tập chậm nhất mười hai ngày kể từ ngày ban hành sắc lệnh để phê chuẩn, sửa đổi hoặc bãi bỏ.

iii.Trong trường hợp Quốc hội bãi bỏ hoặc sửa đổi sắc luật của Tổng thống, các tình trạng đặc biệt đã được ban hành sẽ chấm dứt hoặc thay đổi hiệu lực.[6]

3. Hiến pháp Việt Nam về tình trạng khẩn cấp

Vấn đề khẩn cấp và giới nghiêm rất gần với vấn đề chiến tranh và cận chiến tranh. Cũng giống như nhiều hiến pháp của các quốc gia khác, Hiến pháp của Việt Nam cũng có những quy định về tình trạng chiến tranh và tình trạng khẩn cấp. Vấn đề tuyên bố chiến tranh thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Vấn đề khẩn cấp và giới nghiêm thuộc thẩm quyền của cơ thường trực hoạt động thường xuyên của Quốc hội, vì rằng Quốc hội Việt Nam không họp một cách thường xuyên. Trình tự của việc quyết định và công bố thường chia 2 công đoạn. Công đoạn quyết định và công đoạn công bố. Công đoạn quyết định được Hiến pháp quy định thẩm quyền của Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Công đoạn công bố thuộc thẩm quyền của Nguyên thủ quốc gia – Chủ tịch nước.

Điểm khác nhau cơ bản ở đây so với hiến pháp các nước ở chỗ quyết định tình trạng khẩn cấp Hiến pháp Việt Nam quy định thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cơ quan thường trực của Quốc hội giữa 2 kỳ họp. Trong khi đó quyền này được nhiều Hiến pháp quy định thuộc thẩm quyền của Người đứng đầu Nhà nước, hoặc của Người đứng đầu quyền hành.

Điều 70 Hiến pháp năm 2013 quy định: Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia thuộc thẩm quyền của Quốc hội – lập pháp. Điều 74 khi Hiến pháp quy định về nhiệm vụ của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, khoản 10 quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền: Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.

Điều 88 Hiến pháp năm 2013 về nhiệm vụ của Chủ tịch nước, khoản 5 quy định, Chủ tịch nước, căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.

Quy định một cách chi tiết hơn về trình trạng khẩn cấp là Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2000. Điều 2 của Pháp lệnh này quy định: Theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về tình trạng khẩn cấp. Trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không họp, thì theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Chủ Tịch nước ra lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp.

Điều 16 của Pháp lệnh này quy định: “Theo đề nghị của Thủ tướng chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra nghị quyết, hoặc Chủ tịch nước ra lệnh bãi bỏ tình trạng khẩn cấp, khi thảm họa đã được ngăn ngừa, hạn chế hoặc khắc phục, dịch bệnh đã được chặn đứng, hoặc dập tắt, tình trạng an ninh quốc ga, trật tự an toàn xã hội đã được ổn định.” Theo nguyên tắc chủ thể nào ban bố tình trạng khẩn cấp, thì chủ thể đó có quyền bãi bỏ.

So với các quốc gia hiện đại những quy định nói trên có một số điểm đáng phải bàn luận:

Thứ nhất, tình trạng khẩn cấp là tình trạng bất thường, không thể lấy các quy định pháp luật bình thường để điều hành và quản lý, cũng như người dân không thể thực hiện quyền và tự do của mình theo quy định pháp luật. Ở tình trạng đó đòi hỏi phải có sự ứng xử nhanh, nên pháp luật các quốc gia khác thường ưu tiên cho người đứng đầu hành pháp – hành pháp thực quyền. Trong khi Hiến pháp hiện hành của Nhà nước Việt Nam là Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước theo quy định của Hiến pháp này là hành pháp tượng trưng, không trực tiếp điều hành, chủ yếu là chuyển hóa các quyết định của lập pháp và hành pháp thành quyết định chính thức của Nhà nước.

Quyết định và công bố tình trạng khẩn cấp thuộc theo pháp lệnh có 2 chủ thể: Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 74 k.9) và Chủ Tịch nước (Điều 88 k.5). Việc quy định ở phần nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cộng với việc quy định trước càng chứng tỏ rằng Ủy ban Thường vụ Quốc hội là chủ thể quan trọng hơn. Nguyên thủ quốc gia chỉ có quyền trong trường hợp mà Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp. Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội là cơ quan hoạt động theo cơ chế lạp pháp – hội nghị, bàn bạc tập thể và quyết định theo đa số. Việc triệu tập được đầy đủ các thành viên và bàn bạc, thảo luận rồi đến quyết định theo đa số thì khó cho việc quyết định nhanh đáp ứng được tình trạng khẩn cấp của vấn đề.

Thứ hai, tình trạng khẩn cấp là tình trạng tạm thời, các quyền và lợi ích của người dân bị giới hạn, mà quyết định của nhà nước cần phải nhanh, để tránh sự lạm dụng quyền lực của hành pháp, pháp luật của nhiều quốc gia quy định khoảng thời gian nhất định hành pháp được quyền quyết định tình trạng khẩn cấp, và khoảng thời gian nhất định phải có sự phê chuẩn của lập pháp. Pháp luật của Việt Nam chưa quy định những chốt hãm quyền lực này trong điều kiện các chủ thể nói trên quyết định tình trạng khẩn cấp.

Thứ ba, Hiến pháp của Việt Nam chưa phân biệt rõ quyền tuyệt đối là những quyền không bị giới hạn và những quyền có thể bị giới hạn.

Kể từ khi có pháp lệnh về tình trạng khẩn cấp cho đến hiện nay, pháp lệnh này chưa có điều kiện cho việc áp dụng, kể cả trường hợp vừa qua của phòng chống bệnh dịch Covid – 19. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam dùng văn bản chỉ thị để điều chỉnh việc phòng chống này- Chỉ thị số 19 / CT-TTg ngày 31- 3 năm 2020. Khoản 1 Chỉ thi quy định rất rõ tính giới hạn các quyền của công dân:[7]

Thực hiện cách ly toàn xã hội trong vòng 15 ngày kể từ 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2020 trên phạm vi toàn quốc theo nguyên tắc gia đình cách ly với gia đình, thôn bản cách ly với thôn bản, xã cách ly với xã, huyện cách ly với huyện, tỉnh cách ly với tỉnh, phân xưởng, nhà máy sản xuất phải bảo đảm khoảng cách an toàn, đeo khẩu trang, thực hiện khử trùng, diệt khuẩn theo quy định. Yêu cầu mỗi người dân tại nhà, chỉ ra ngoài trong trường hợp thật sự cần thiết như mua lương thực, thực phẩm, thuốc men, cấp cứu, làm việc tại nhà máy, cơ sở sản xuất, cơ sở kinh doanh dịch vụ, hàng hóa thiết yếu không bị đóng cửa, dừng hoạt động và các trường hợp khẩn cấp khác; thực hiện nghiêm việc giữ khoảng cách tối thiểu 2m khi giao tiếp; không tập trung qua 2 người ngoài phạm vi công sở, trường học, bệnh viện và tại nơi công cộng.

Sau 6 ngày Việt Nam không phát hiện thêm ca nhiễm Covid-19 mới, cả nước vẫn phải chấp nhận tình trạng sống trong trạng thái có dịch, chuyển sang giai đoạn chống dịch cùng với phát triển kinh tế – xã hội. Từ 0h ngày mai 23.4. 2020, nhiều địa phương bao gồm TP.HCM và Hà Nội (trừ huyện Mê Linh và Thường Tín) dừng cách ly xã hội. Việt Nam chấp nhận tình trạng vừa chống dịch vừa phát triển kinh tế – xã hội. Đây là kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp thường trực Chính phủ chiều 22. 4. 2020.

Sau hơn ba tháng không có ca nhiễm mới nào trong cộng đồng, và sau một thời gian dài được cả thế giới khen ngợi về thành tích phòng chống dịch Covid-19 giỏi đến mức không có một ca tử vong nào, Việt Nam nay phải đối phó với một làn sóng dịch thứ hai, đến bất ngờ và dữ hội hơn lần trước, với tâm chấn là thành phố du lịch Đà Nẵng. Người đứng đầu hành pháp chỉ thị, khác trong đợt dịch trước đây, rằng “mỗi gia đình, thôn xóm, bản làng là pháo đài chống dịch như chống giặc, thì ở đợt hai, đối với các địa phương không có lây nhiễm tại cộng đồng, thì thực hiện khoanh trong phạm vi bán kính vừa đủ để quản lý, phân loại và kiểm soát phòng chống dịch, đảm bảo mục tiêu các hoạt động kinh tế xã hội được bình thường.[8]

4. Kết luận

Hiến pháp là bản văn được quy định để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội vè cơ bản ở điều kiện hòa bình, mà ở đó mọi quyền con người và quyền công dân cần phải được bảo đảm, phải được bảo vệ cho dù có ghi hay ghi trong các quy định Hiến pháp. Nhưng không phải lúc nào đất nước cũng có hòa bình. Sự tôn trọng, sự bảo đảm quyền con người của Việt Nam mới chỉ bắt đầu vào những năm gần đây sau những ngày đổi mới của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những giai đoạn của thời bình, vẫn có thời gian, không gian của không bình thường. Đó là tình trạng đặc biệt, mà ở đó quyền con người bị hạn chế. Cho dù có hạn chế đi chăng thì vẫn phải theo luât. Đó là đòi hỏi của pháp quyền, mà ngày nay đất nước ta cần phải xây dựng. Hiến pháp Việt Nam của chế độ mới ngay từ đầu đã có những quy định như vậy. Nhưng xét đến cùng những quy định này chưa thực sự đã hoàn hảo, cần phải có sự sửa đổi bổ sung trong thời gian tới. Nhất là Quốc hội phải có văn quy định trong trường hợp nào, khi nào thì hành pháp được quyền quyết định, và thời gian bao nhiêu lâu hành pháp buộc phải triệu tập Quốc hội họp để phê chuẩn, hoặc sửa đổi, hay đình chỉ quyết định đó của hành pháp. Công việc cấp bách là phải tập trung nâng pháp lệnh về tình trạng khẩn cấp thành luật của Quốc hội. Nội dung của luật này phải tính đến những điểm đã được phân tích ở phần trên.

[1] Xem: An outline of American History /Lịch sử khái quát nước Mĩ. tr. 192 – 193 Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. 2000

[2] Jay M. Shafritz, Từ điển về Chính quyền và chính trị Hoa kỳ, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. 2002

[3] David Herbert Donald, “Linconln, the Politican” in Linconln Reconsidered: Essaus on the civil War Era, New York: Random House. 1956

[4] Xem, Bùi Đức Mãn: Lịch sử nước Anh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh 2002 t.140

[5] Xem: Tuyển tập Hiến pháp các nước trên thế giới. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội 2010

[6] Trương Tiến Đat: Hiến pháp Chú thích, Tựa của Vũ Quốc Thông, S. 1967 tr. 279

[7] Điều cần phải chú ý ở đây là Chỉ thị không được Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành ghi nhận là hình thức văn bản quy phạm pháp luật của Thủ tướng.

[8] Virus corona: Với bùng phát mới, VN vừa chống dịch vừa lo giữ kinh tế. BBC new 4/8 / 2020


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. An outline of American History /Lịch sử khái quát nước Mĩ. (2000) Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội
  2. Jay M. Shafritz, (2000) Từ điển về Chính quyền và chính trị Hoa kỳ, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
  3. David Herbert Donald, (1956) “Lincoln, the Political” in Lincoln Reconsidered: Essays on the civil War Era, New York: Random House.
  4. Trương Tiến Đat (1967) Hiến pháp Chú thích, Tựa của Vũ Quốc Thông Sài Gòn.
  5. Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị (ICCPR, 1966) Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Hồng Đức, 2012.
  6. Bùi Đức Mãn (2002) Lịch sử nước Anh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
  7. Tuyển tập Hiến pháp các nước trên thế giới (2010) Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội

Nguồn:
HỘI THẢO KHOA HỌC “NGUYÊN TẮC PHÁP QUYỀN TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP Ở VIỆT NAM: NHẬN THỨC VÀ THỰC TRẠNG”
Tác giả:
GS.TS. Nguyễn Đăng Dung – Trường Đại học Tôn Đức Thắng

Trên đây là nội dung bài viết “Quyền hành pháp trong tình trạng khẩn cấp theo hiến pháp một số nước và Việt Nam” mà LDM (Legal de Minimis) chia sẻ đến bạn đọc. LDM được thành lập vào năm 2021 với mục tiêu cống hiến cho công cuộc giáo dục pháp lý của nước nhà. Cùng đội ngũ những luật gia trẻ và tràn đầy nhiệt huyết, LDM nỗ lực từng ngày để trở thành người dẫn đường và đồng hành cùng các thế hệ sinh viên theo đuổi đam mê với nghề Luật. Chúng tôi tự hào là một trong những tổ chức tiên phong về giáo dục, định hướng, kết nối và xây dựng một diễn đàn về học và hành nghề Luật tại Việt Nam. Với phương châm “Cuộc hành trình vĩ đại nào cũng bắt đầu từ những bước chân nhỏ nhất”, LDM mong rằng sẽ góp phần tạo nên nhiều hành trình ý nghĩa cùng thế hệ luật sư hiện tại và tương lai.

Để lại phản hồi

Có phải bạn đang tìm: quyền con ngườihiến pháphợp đồng

Generic filters
Search in title
Search in content
Exact matches only
Filter by Chuyên mục
Bảo mật dữ liệu
Chưa phân loại
Dịch vụ pháp lý
Khác
Luật Các tổ chức tín dụng
Luật cạnh tranh
Luật dân sự
Luật doanh nghiệp
Luật đất đai
Luật đấu thầu
Luật đầu tư
Luật hành chính
Luật hiến pháp
Luật hình sự
Luật Hôn nhân và Gia đình
Luật lao động
Luật môi trường
Luật nhà ở
Luật phá sản
Luật quốc tế
Luật sở hữu trí tuệ
Luật thuế
Luật thương mại
Luật Tố tụng dân sư
Luật tố tụng hình sự
Luật trọng tài thương mại
Lý luận chung về nhà nước và pháp luật

NỘI DUNG CHÍNH

Youtube - Clip chia sẻ

Start typing to see products you are looking for.