Tiếp tục chuyên mục “Hành Trang Học Luật”, trong bài viết lần này, mình muốn chia sẻ một góc nhìn về một trong ba loại tư duy logic phổ biến nhất mà bất cứ sinh viên luật nào cũng cần nhận biết được và dành thời gian rèn luyện, và đó là tư duy logic khi phân tích các chi tiết của một vụ việc cụ thể. Để nói một cách ngắn gọn nhất, nếu như tư duy logic khi áp dụng quy định pháp luật (mà mình đã chia sẻ trong bài viết trước) là một yếu tố quan trọng để đảm bảo một người hiểu đúng, đủ và toàn diện về một quy định pháp luật cụ thể, tư duy logic khi phân tích các chi tiết của một vụ việc có sẽ giúp một người hiểu đúng, đủ và toàn diện về một vụ việc cụ thể.
Các vụ việc mà mình nhắc đến ở đây chính là những tình tiết trong thực tế cuộc sống với sự tham gia của những con người, sự vật, sự việc cụ thể, mà thường xuất hiện ở hình thức là bối cảnh của một yêu cầu tư vấn của khách hàng, hoặc bối cảnh của một vụ tranh chấp dân sự, vụ án hình sự, hành chính, hay bất cứ vụ việc nào khác xảy ra trong thực tế cuộc sống. Đối với việc học luật thì bất cứ sinh viên luật nào cũng phải đọc và nghiên cứu các vụ việc thực tế (hoặc giả định) trong quá trình học tập, và đây cũng chính là các vụ việc mình đề cập ở bài viết này. Việc hiểu rõ các chi tiết của một vụ việc sẽ giúp cho sinh viên luật hay người hành nghề luật có cơ sở vững chắc để áp dụng các quy định pháp luật có liên quan và đưa ra hướng áp dụng quy định pháp luật để giải quyết vụ việc.
Thông thường thì loại tư duy logic này sẽ được áp dụng sau khi chúng ta đã thu thập đầy đủ hoặc tương đối đầy đủ “dữ liệu đầu vào” về vụ việc. Quá trình tư duy logic này đòi hỏi sử dụng lập luận chặt chẽ để sắp xếp, liên kết các thông tin rời rạc thành một bức tranh tổng thể theo những trình tự logic nhất định (ví dụ như về không gian, thời gian, quy luật tự nhiên, hoặc trên các cơ sở tham chiếu khác), từ đó xác định đầy đủ và chính xác bối cảnh vụ việc thông qua các sự kiện, chủ thể, hành vi cũng như mối liên hệ logic giữa các sự kiện, chủ thể, hành vi trong vụ việc. Loại tư duy logic này đòi hỏi sự chính xác, khách quan và khả năng loại bỏ các yếu tố cảm xúc hoặc suy đoán không có căn cứ, nhằm đảm bảo rằng mọi kết luận đều dựa trên bằng chứng và lập luận hợp lý.
Sau đây là một ví dụ minh họa về tư duy logic khi phân tích bối cảnh thực tế của một vụ án hình sự trộm cắp tài sản. Ông A – quản lý của một cửa hàng Thế giới di động bị cáo buộc lấy trộm tiền từ két sắt của cửa hàng vào ban đêm. Ta sẽ bắt đầu bằng cách xem xét các bằng chứng hiện có: camera an ninh trong cửa hàng cho thấy một người đàn ông đeo mặt nạ vào cửa hàng lúc 2 giờ sáng, két sắt bị mở mà không có dấu hiệu cạy phá, và nhân viên của cửa hàng cũng như người có thẩm quyền của Thế giới di động khai rằng chỉ có ông A là quản lý biết mật mã két của cửa hàng. Sử dụng tư duy logic, ta đặt câu hỏi: “Làm thế nào kẻ trộm biết mật mã nếu không có sự cạy phá?” Từ đây, ta suy ra khả năng kẻ trộm có thể là người trong nội bộ, chẳng hạn như quản lý hoặc ai đó được người quản lý tiết lộ thông tin. Kết luận này không dựa trên cảm giác mà dựa trên sự liên kết logic giữa các dữ kiện: không cạy phá – phải biết mật mã – chỉ quản lý là ông A biết mật mã – ông A có thể là người thực hiện tội phạm hoặc cũng có thể là ông A đã chia sẻ mật mã cho một người đàn ông khác. Sau đó, ta có thể tiếp tục vận dụng tư duy logic trên cơ sở dữ liệu thông tin về vụ việc, hoặc dựa trên tư duy logic trên để tiếp tục thu thập thông tin về vụ việc để làm sáng tỏ hoàn toàn vụ việc, ví dụ, xác minh thông tin tại thời điểm tội phạm xảy ra thì ông A đang ở đâu chẳng hạn.
Bằng cách trả lời những câu hỏi này một cách tuần tự và có cơ sở, người phân tích có thể tái hiện lại chuỗi sự kiện một cách rõ ràng, đồng thời phát hiện ra những mâu thuẫn hoặc thiếu sót trong lời khai, chứng cứ. Qua toàn bộ quá trình tư duy logic và sắp xếp lại các tình tiết này, ta có một cái nhìn chính xác, toàn diện và đầy đủ về diễn biến vụ việc, làm cơ sở để áp dụng quy định pháp luật có liên quan trong giải quyết vụ việc.